
Theo báo cáo của Văn phòng UN Woman Việt Nam tại Hội thảo “Lao động và việc làm trong bối cảnh hội nhập” với chủ đề “Tình hình nền kinh tế chăm sóc trong ASEAN” do Bộ Nội vụ tổ chức cuối tháng 7/2025, nếu quy đổi toàn bộ thời gian chăm sóc không lương trên thế giới theo mức lương tối thiểu, giá trị tạo ra tương đương 9% GDP toàn cầu, vào khoảng 11.000 tỷ USD. Ở Việt Nam, giá trị công việc chăm sóc không lương mà phụ nữ làm mỗi ngày 5 tiếng có thể lên tới 1.100 tỷ đồng mỗi năm.
Nếu không có công việc chăm sóc, xã hội không thể vận hành
Bà Nguyễn Thị Bích Thúy, chuyên gia Văn phòng UN Woman Việt Nam đại diện trình bày báo cáo “Công việc chăm sóc không lương và có lương tại Việt Nam” cho biết, khảo sát gần nhất ghi nhận phụ nữ dành trung bình 3 – 4 giờ mỗi ngày cho việc nhà, cao gần gấp ba lần nam giới. “Nếu không có công việc chăm sóc, xã hội không thể vận hành. Không ai có thể đi làm nếu không có người ở nhà lo việc nhà, chăm sóc con cái, người già, người bệnh”, theo bà Thúy.
Vấn đề về “công việc chăm sóc” được Hội thảo đưa ra từ góc nhìn về toàn bộ những thách thức và cơ hội của nền kinh tế chăm sóc trong ASEAN. Ông Vũ Chiến Thắng – Thứ trưởng Bộ Nội vụ dẫn số liệu của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và Ban Thư ký ASEAN, cho biết di cư lao động trong nội khối đang có xu hướng tăng, với khoảng 10 triệu lao động đang sinh sống và làm việc tại các quốc gia thành viên ASEAN.
“Xu hướng này phản ánh nhu cầu ngày càng lớn về nguồn nhân lực, đặc biệt trong các dịch vụ chăm sóc, do dân số già hóa nhanh và tỷ lệ phụ nữ tham gia thị trường lao động tăng cao. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc xây dựng nền kinh tế chăm sóc bền vững, cân bằng giữa cung – cầu nhân lực và bảo đảm chất lượng dịch vụ. Lao động di cư không chỉ là lực lượng bổ sung cần thiết cho nền kinh tế chăm sóc (caring economy) của các nước ASEAN, mà còn đảm nhận nhiều vị trí mà lao động bản địa không còn đủ khả năng đáp ứng. Sự hiện diện của lao động di cư giúp giảm áp lực cho hệ thống chăm sóc trong nước và mang lại những kinh nghiệm, kỹ năng mới”, Thứ trưởng Vũ Chiến Thắng khẳng định.
Không phải đến bây giờ, khái niệm về “công việc chăm sóc” và “nền kinh tế chăm sóc” mới được đề cập tới. Áp lực từ công việc chăm sóc không lương đã được đề cập tại Tọa đàm “Nâng cao kỹ năng số cho phụ nữ: Cân bằng giữa phát triển kinh doanh và công việc chăm sóc” do Trung tâm Phụ nữ và Phát triển (CWD) trực thuộc Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phối hợp với Quỹ Châu Á (TAF) tổ chức tháng 11/2024.
Tại Tọa đàm, những phát hiện chính từ Nghiên cứu ban đầu về “Vai trò của công nghệ số đối với công việc chăm sóc không lương của phụ nữ kinh doanh” đã được Quỹ Châu Á công bố qua phỏng vấn 664 phụ nữ. Theo đó, áp lực việc nhà là vấn đề lớn nhất với phụ nữ kinh doanh. Qua phỏng vấn là những nữ chủ doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ… cho thấy trong đó, việc kinh doanh dựa trên Facebook chiếm tới 95%, Zalo chiếm 42%, Tiktok chiếm 46%; 35% có trang cộng đồng, facebook KD cá nhân. Phần lớn phụ nữ chọn kinh doanh online để chủ động công việc và cuộc sống “tự do”, “làm chủ”, “linh hoạt”…
Theo TS Trần Thị Thanh Loan – Viện nghiên cứu gia đình và giới, công việc chăm sóc không lương gần như mặc nhiên được nhiều người Việt Nam coi đó là công việc của phụ nữ. Quan điểm “đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm” vẫn còn cố hữu. Định kiến giới này đã ảnh hưởng tới phụ nữ, nhất là phụ nữ kinh doanh. Nhiều người bán hàng online vẫn được xem là người nội trợ ở nhà; chỉ có người có cửa hàng, công ty mới được xem là có nghề và được giảm bớt thời gian làm việc.
Chiến lược “5R” cho hệ sinh thái chăm sóc bền vững
Theo Báo cáo “Tương lai của nền kinh tế chăm sóc” do Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), khi tỷ lệ sinh giảm và tuổi thọ tăng, một lượng lớn người lớn tuổi sẽ cần người chăm sóc và dịch vụ chăm sóc, từ đó hình thành nên “nền kinh tế chăm sóc” bao gồm những hoạt động cơ bản thiết yếu hằng ngày, có thể được trả lương hoặc không được trả lương.

Công việc chăm sóc không công hầu hết là việc nhà, như chăm sóc trực tiếp cho người thân trong gia đình, họ hàng; chăm sóc trẻ sơ sinh hoặc người bị bệnh; nấu ăn, dọn dẹp, tự trả tiền cho dịch vụ y tế tại nhà… Công việc chăm sóc được trả lương gồm công việc của điều dưỡng, y tá, người trông trẻ, nhân viên y tế cộng đồng, nhân viên chăm sóc người già cũng như người giúp việc gia đình, đầu bếp hay người dọn dẹp… Công việc chăm sóc không lương hay có lương cũng chủ yếu do phụ nữ đảm nhiệm, thường là những người thuộc nhóm yếu thế về mặt xã hội, trong đó có người di cư.
ILO đánh giá, ngành kinh tế chăm sóc đang phát triển mạnh khi nhu cầu chăm sóc trẻ em và người già tăng lên ở mọi khu vực. Xu hướng này cũng tạo ra một số lượng lớn việc làm trong những năm tới. Trong khi những tiến bộ công nghệ đang chuyển đổi thị trường lao động toàn cầu, đe dọa các công việc truyền thống thì ngược lại, ngành kinh tế chăm sóc có tiềm năng to lớn cung cấp việc làm cho người lao động, đặc biệt là đối với phụ nữ.
Tuy nhiên, theo ông Vũ Chiến Thắng, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, lao động di cư nói chung và lao động di cư để đáp ứng nhân lực cho nền kinh tế chăm sóc nói riêng vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức, từ điều kiện làm việc khắc nghiệt, sự phân biệt đối xử, đến việc thiếu bảo vệ quyền lợi chính đáng. “Cần thiết phải có những chính sách phù hợp nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động di cư, bảo đảm họ được làm việc trong môi trường an toàn, công bằng và bình đẳng”, ông Thắng nhấn mạnh.
Một trong những chính sách đó là việc đo lường chính xác giá trị của chăm sóc không lương, đưa những công việc chăm sóc thành công việc chính thức, được ghi nhận và có lương. Theo TS Navarat Temsumrit, Đại học Kasetsart, Thái Lan, việc đo lường chính xác giá trị của chăm sóc không lương vừa tạo cơ sở hoạch định ngân sách an sinh, vừa mở đường để thu hút đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ chăm sóc có lương. “Khi được công nhận, người chăm sóc, chủ yếu là phụ nữ và người cao tuổi sẽ chuyển dịch dần từ khu vực phi chính thức sang thị trường lao động chính thức, qua đó mở rộng quỹ bảo hiểm xã hội và nâng cao năng suất chung”, bà Navarat phân tích.
Tại Việt Nam, trên thực tế, những bước đi đầu tiên đã hiện diện. Bộ luật Lao động sửa đổi tăng thời gian nghỉ sinh của phụ nữ lên sáu tháng, bổ sung năm ngày nghỉ cho cha khi vợ sinh con; nhiều địa phương thí điểm trung tâm chăm sóc cộng đồng kết hợp y tế – phục hồi chức năng… Nhưng để đưa những công việc chăm sóc thành công việc chính thức, được ghi nhận và có lương, Việt Nam còn nhiều việc phải làm, trong bối cảnh mạng lưới nhà trẻ công lập chỉ đáp ứng một phần nhỏ nhu cầu gửi trẻ dưới 18 tháng; dịch vụ chăm sóc người cao tuổi và người khuyết tật manh mún, thiếu chuẩn chất lượng. Chi phí dịch vụ tư nhân cao khiến nhiều gia đình buộc phải tự chăm, biến công việc chăm sóc thành vòng lặp khép kín trong nhà bếp và phòng khách. Trong khu vực chăm sóc có lương, phụ nữ chiếm tới 75 – 80% lực lượng lao động nhưng phần lớn ở vị trí lương thấp, ít cơ hội thăng tiến.
Từ kinh nghiệm quốc tế, bà Nguyễn Kim Lan, đại diện Văn phòng UN Woman Việt Nam đề xuất áp dụng chiến lược “5R”. Trước hết là “recognise” – công nhận đóng góp của chăm sóc không lương bằng cách đưa chỉ tiêu “giờ chăm sóc” vào thống kê chính thức. Tiếp theo là “reduce” – giảm gánh nặng nhờ đầu tư hạ tầng phúc lợi, mở rộng trường mầm non, trung tâm dưỡng lão, dịch vụ hỗ trợ gia đình và ứng dụng công nghệ. “Re-distribute” nhấn mạnh chia sẻ trách nhiệm giữa nam và nữ, giữa gia đình, Nhà nước, thị trường và cộng đồng. “Reward” hướng tới trả công công bằng, mở rộng bảo hiểm xã hội và lương hưu cho người làm nghề chăm sóc. Cuối cùng là “represent”, trao quyền tiếng nói cho lao động chăm sóc thông qua công đoàn, hiệp hội nghề nghiệp.
Dù vậy, bà Lan cho rằng, hệ sinh thái chăm sóc bền vững chỉ hình thành khi ba mắt xích: Nhà nước, thị trường và gia đình, cùng vận hành nhuần nhuyễn. Nhà nước cần giữ vai trò dẫn dắt, ban hành chuẩn nghề và ưu đãi thuế cho doanh nghiệp đầu tư; doanh nghiệp phải cam kết chất lượng và lương xứng đáng; trong khi gia đình cần thay đổi định kiến, khuyến khích nam giới tham gia chăm sóc.
Tại Tọa đàm “Nâng cao kỹ năng số cho phụ nữ: Cân bằng giữa phát triển kinh doanh và công việc chăm sóc” tháng 11/2024, theo các chuyên gia, công nghệ số và các thiết bị điện tử gia dụng thông minh đã và đang góp phần giảm bớt thời gian làm việc nhà cho phụ nữ. Điều này cho phép phụ nữ phân công một số việc nhà cho các thành viên gia đình hoặc thuê dịch vụ thông qua các nền tảng kỹ thuật số. Tuy nhiên, các thiết bị, ứng dụng nói trên vẫn chưa tác động đáng kể đến sự hoán đổi/thay thế vai trò chăm sóc gia đình của phụ nữ kinh doanh. Điều này bị chi phối bởi các quan niệm về vai trò giới, điều kiện tài chính, khác biệt môi trường sống (nông thôn, miền núi, thành thị), năng lực số…
Phát biểu tại buổi tọa đàm, ông Filip Graovac, Phó Trưởng đại diện Văn phòng Quỹ Châu Á tại Việt Nam cho biết, công việc chăm sóc không lương bao gồm chăm sóc con cái, người già và các công việc nội trợ vẫn là gánh nặng lớn đối với phụ nữ Việt Nam, đặc biệt là những người đang điều hành các doanh nghiệp nhỏ. “Là nam giới, tôi thấy việc phân chia công việc trong gia đình là rất quan trọng. Đàn ông cần phải chia sẻ. Đây không chỉ là vấn đề công bằng mà còn là tính thực tiễn. Khi chúng ta cùng làm việc không chỉ thúc đẩy sự bình đẳng trong gia đình, mà còn giúp các đối tác của chúng ta phát triển trong cuộc sống nghề nghiệp và cá nhân” – ông Filip Graovac khẳng định.
Theo Báo Pháp luật Việt Nam điện tử