Trang chủ » Hiện thực hóa Nghị quyết 72: Nhận diện khó khăn, tháo gỡ “nút thắt”

Hiện thực hóa Nghị quyết 72: Nhận diện khó khăn, tháo gỡ “nút thắt”

Việc triển khai Nghị quyết 72 mở ra cơ hội để ngành Y tế bứt phá và đổi mới toàn diện nhưng cũng đầy thách thức; khi ngành Y tế phải đồng thời đối mặt với nhiều rào cản mang tính khách quan và nội tại – từ biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, áp lực kinh tế cho đến hạn chế về hạ tầng, tài chính và năng lực quản trị. Việc nhận diện sớm các khó khăn giúp ngành Y tế xác định đúng trọng tâm, đề ra giải pháp phù hợp và chủ động ứng phó hiệu quả.

Già hóa dân số và sự gia tăng bệnh mãn tính đặt thêm áp lực lên hệ thống y tế. (Nguồn: HNM).

Sức khỏe cộng đồng trước những thách thức thời đại

Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), biến đổi khí hậu không chỉ là thách thức môi trường mà đã trở thành một cuộc khủng hoảng y tế toàn cầu, trong đó Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. Trong nước, những tác động ngày càng rõ rệt đang đặt ra cảnh báo đối với hệ thống y tế. Biến đổi khí hậu đang làm gia tăng dịch bệnh truyền nhiễm như sốt xuất huyết, thúc đẩy các hiện tượng thời tiết cực đoan và đe dọa nguồn nước sạch, đặc biệt tại các vùng ven biển và khu vực dễ tổn thương. Đó là những ý kiến chuyên gia được đưa ra tại Hội thảo tham vấn “Biến đổi Khí hậu và Sức khỏe: Thúc đẩy Lồng ghép Sức khỏe vào Báo cáo NDC 3.0 của Việt Nam” do Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cùng ba cơ quan Liên hợp quốc gồm WHO, UNDP và UNICEF tổ chức cuối tháng 9.

Cụ thể, Tiến sĩ Angela Pratt, Trưởng đại diện WHO tại Việt Nam cảnh báo: “Hệ thống y tế là tuyến đầu ứng phó với khủng hoảng khí hậu. Nếu không hành động kịp thời, chi phí sức khỏe và kinh tế sẽ khổng lồ, trong khi tính mạng hàng triệu người dân bị đe dọa”. Ước tính đến năm 2050, chi phí y tế do biến đổi khí hậu gây ra tại Việt Nam có thể lên tới 3 tỷ USD, trong khi thiệt hại về năng suất lao động có thể chạm mốc 23 tỷ USD. Khoảng 70% dân số Việt Nam hiện sinh sống tại vùng trũng, ven biển, nơi nguy cơ lũ lụt, xâm nhập mặn và bão ngày càng nghiêm trọng. Các hiện tượng thời tiết cực đoan như nắng nóng kéo dài, mưa lớn, lũ lụt và ô nhiễm không khí gia tăng dễ gây bùng phát dịch bệnh, làm suy yếu hạ tầng y tế, nước uống và hệ thống thoát nước. WHO ước tính rằng sức khỏe cần được đặt vào trung tâm khi phát triển chính sách ứng phó biến đổi khí hậu, vì nếu bỏ qua khía cạnh y tế, những thiệt hại về sức khỏe, chi phí điều trị và gánh nặng xã hội sẽ rất nặng nề. 

Bên cạnh đó, ô nhiễm môi trường, an toàn thực phẩm, chất lượng không khí, nguồn nước khiến các yếu tố rủi ro sức khỏe gia tăng, cùng với các nguy cơ bệnh dịch mới nổi, chuyển dịch bệnh tật. WHO thống kê, mỗi năm, 41 triệu người trên thế giới tử vong vì bệnh không lây nhiễm (NCDs) như tim mạch, tiểu đường, ung thư – chiếm gần 3/4 tổng số ca tử vong toàn cầu. Tại Việt Nam, NCDs chiếm 80% số ca tử vong. Từ năm 2015 – 2021, tỷ lệ người trưởng thành mắc tăng huyết áp tăng từ 20% lên 25%, tiểu đường từ 4% lên 7%, song 70 – 80% vẫn chưa được điều trị. Như vậy, y tế không chỉ là chữa bệnh mà phải gắn chặt với phòng bệnh, kiểm soát môi trường và phối hợp liên ngành.

Một trong những áp lực lâu dài và ngày càng lớn là hiện tượng già hóa dân số. Theo Dữ liệu dân cư quốc gia, cả nước hiện có khoảng 16,1 triệu người cao tuổi, chiếm trên 16% dân số. Bộ Y tế dự báo đến năm 2038, Việt Nam sẽ bước vào thời kỳ dân số già, cứ 5 người dân Việt thì có một người trên 60 tuổi. Tuổi thọ người dân Việt Nam tăng nhanh, năm 2024, con số này là 74,7 tuổi, nhưng số năm sống khỏe mạnh của người Việt còn khiêm tốn, chỉ 65 tuổi. Người cao tuổi Việt Nam đang đối mặt với gánh nặng bệnh tật kép: vừa là hậu quả tích lũy của các bệnh lý mạn tính không lây như tim mạch, đái tháo đường, ung thư, loãng xương, sa sút trí tuệ… vừa có nguy cơ cao gặp phải các tình trạng suy giảm chức năng, biến chứng điều trị, lệ thuộc thuốc và giảm chất lượng sống. Theo Bộ Y tế, dù chỉ chiếm 16% dân số nhưng nhóm người cao tuổi sử dụng trên 50% chi phí điều trị mỗi năm. Chi phí điều trị cho người cao tuổi thường cao gấp gần 10 lần người trẻ. Khi dân số già, kỳ vọng chất lượng điều trị, tiện ích y tế và dịch vụ chăm sóc cũng tăng trong khi nguồn lực đầu tư cho y tế cơ sở, y tế dự phòng và hạ tầng phòng, chống bệnh mãn tính vẫn còn hạn chế.

Tháo gỡ “điểm nghẽn” nội tại ngành Y tế

Song song, áp lực kinh tế cũng đang tác động mạnh đến ngành Y tế. Lạm phát, chi phí nhân lực và vật tư tăng cao, cùng với việc ngân sách công bị siết chặt, khiến nguồn vốn dành cho y tế dễ bị co hẹp. Trong khi đó, các chương trình quốc gia về y tế dự phòng, phòng, chống dịch, nâng cấp trạm y tế cơ sở lại cần nguồn đầu tư lớn, các địa phương sẽ đối mặt với lựa chọn phân bổ nguồn lực giữa y tế và các lĩnh vực thiết yếu khác như hạ tầng, giáo dục hay giao thông.

Theo tính toán của Bộ Y tế, với 100 triệu dân và chi phí trung bình 250.000 đồng mỗi lần khám, ngân sách cần thiết để bảo đảm mỗi người được khám ít nhất một lần mỗi năm là 25.000 tỷ đồng. Niên giám y tế Việt Nam năm 2020 cũng ghi nhận chi ngân sách nhà nước cho y tế là 124.700 tỷ đồng. Nguồn thu khác cho y tế là từ viện phí, bảo hiểm y tế, hoạt động dịch vụ… ước khoảng 147.540 tỷ đồng. Như vậy, tổng chi cho y tế năm 2020 là 272.240 tỷ đồng, song con số này vẫn chưa tương xứng với nhu cầu đầu tư ngày càng tăng cho ngành Y tế hiện nay.

Một “nút thắt” lớn khác nằm ở hạ tầng và trang thiết bị y tế. Nhiều cơ sở, đặc biệt tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vẫn thiếu trang thiết bị cơ bản và thuốc thiết yếu. Nghị quyết 72 đã nhận diện hạn chế này khi chỉ ra: “Y tế dự phòng chưa được đầu tư thỏa đáng, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phòng, chống dịch, bệnh; năng lực sản xuất, cung ứng thuốc, vật tư, thiết bị y tế còn hạn chế, phụ thuộc nguồn nhập khẩu; việc huy động nhân lực còn bị động, nhất là trong tình huống xảy ra dịch lớn.

Y tế cơ sở chưa cung cấp đầy đủ các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, việc khám sàng lọc để phát hiện sớm bệnh tật cho người dân chưa được triển khai rộng rãi, chưa tạo được niềm tin cho người bệnh, dẫn đến tình trạng khám, chữa bệnh vượt cấp, kể cả với những bệnh lý thông thường, gây quá tải ở tuyến trên”. Đáng chú ý, việc nâng cấp, đầu tư mới trang thiết bị hiện đại và xây dựng cơ sở y tế đến chuẩn kỹ thuật cao đòi hỏi nguồn vốn rất lớn. Nguồn lực đầu tư từ ngân sách nhà nước cũng có giới hạn, đòi hỏi cần đẩy mạnh huy động vốn xã hội hóa, đối tác quốc tế mới đáp ứng được lộ trình đặt ra.

Cuối cùng, chuyển đổi số y tế vẫn tiến triển chậm. Đơn cử, mục tiêu xây dựng hệ thống dữ liệu y tế quốc gia, sổ sức khỏe điện tử, bệnh án điện tử, kết nối liên thông dữ liệu cá nhân còn gặp khó vì hạ tầng viễn thông, đường truyền tại địa phương vùng sâu, vùng xa chưa đồng đều, chi phí đầu tư công nghệ cao lớn và năng lực quản trị dữ liệu của nhiều cơ sở y tế chưa sẵn sàng. Việc bảo đảm an ninh thông tin, bảo mật dữ liệu cá nhân sức khỏe cũng là thách thức lớn khi hệ thống y tế số được mở rộng, nếu không bảo đảm tiêu chuẩn bảo mật cao, sẽ dễ xảy ra rủi ro rò rỉ dữ liệu, mất niềm tin người dân.

Việc nhận diện sớm những khó khăn và rào cản chính là nền tảng quan trọng giúp ngành Y tế xác định đúng trọng tâm ưu tiên, từ đó triển khai Nghị quyết 72 một cách thực chất và hiệu quả. Khi nhìn thẳng vào các thách thức, xác định rõ hạn chế và chủ động đề ra giải pháp ứng phó kịp thời, từng “nút thắt” sẽ dần được tháo gỡ, tạo đà cho ngành Y tế bứt phá mạnh mẽ, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe Nhân dân và hướng tới một hệ thống y tế hiện đại, bền vững, đủ sức thích ứng với những biến động của thời đại.

Theo Báo Pháp luật Việt Nam điện tử

Hội Khoa học Kinh tế y tế Việt Nam
Trang thông tin điện tử tổng hợp Kinh tế Y tế
Chịu trách nhiệm nội dung: Nguyễn Linh Chi
Số: 138A Giảng Võ – Ba Đình – Hà Nội
ĐT: 089.996.0000

Email: kinhteytevietnam@gmail.com
Điện Thoại: 089.996.0000
Giấy phép số 281/GP – TTĐT ngày cấp 19/11/2024
Cục Phát thanh Truyền hình và Thông tin Điện tử – Bộ Thông tin và Truyền thông